Do xuất khẩu giảm, thị trường tin rằng một lượng tồn kho khá lớn còn đang nằm trong nước. Nghịch lý là đáng ra hàng còn nhiều, giá phải “hợp lý” nhưng…hiện nay không phải thế. Nhiều nước đang “phá giá” cà phê để bán cho được, còn người còn giữa hàng nước ta lại đang chờ một sức mạnh từ nhu cầu tiêu thụ để có giá cao hơn.
Chấp nhận bán giá thấp
Giá cà phê nguyên liệu trên thị trường nội địa tại các tỉnh Tây Nguyên đang ở mức thấp, sáng chủ nhật 9-8 vẫn giao dịch ở mức 36 triệu đồng/tấn, cao hơn tuần trước chừng 1 triệu đồng/tấn.
Giá hiện nay như vậy là thấp, vì giá cà phê nguyên liệu trong niên vụ này, bắt đầu từ 1-10-2014 và sẽ kết thúc vào ngày 30-9-2015, nhiều lần chạm mức 35 triệu đồng/tấn rồi phải dội ngược lên lại.
“Giá 36 triệu đồng/tấn được giao dịch cho các lô hàng giao trong vòng mươi ngày sau khi ký hợp đồng, người bán có thể hưởng giá khuyến khích cộng thêm 0,5 triệu đồng tấn thành giá 36,5 triệu đồng/tấn nếu như giao hàng ngay khi ký hợp đồng,” lãnh đạo một doanh nghiệp xuất khẩu cà phê có nhà máy chế biến tại TP Buôn Ma Thuột cho biết.
Ở mức 36,5 triệu đồng/tấn, giá nguyên liệu tại thị trường nội địa đã cao hơn giá kỳ hạn trên sàn cà phê Ice London, một chuyên gia ngành hàng nhận định.
Giá nào là thấp, giá nào là cao?
Đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần đến ngày 7-8-2015, giá kỳ hạn robusta London chốt mức 1.661 đô la/tấn, so với tuần trước cao hơn 23 đô la/tấn, nhưng lại thấp hơn nhiều so với giá đóng cửa tại một ngày đầu vụ, bấy giờ có mức 2.236 đô la/tấn. Vậy giá kỳ hạn đến nay đã mất 577 đô la/tấn so với đầu niên vụ 2014-15 (xin xem biểu đồ 1).
“Dù giá giao dịch tính trên tiền mặt (outright) ở mức thấp 36,5 triệu đồng/tấn, giá này đã tương đương với 1.671 đô la/tấn, tức cao hơn 10 đô la/tấn so với giá niêm yết của sàn kỳ hạn khi đóng cửa,” vị chuyên gia cho biết.
“Với chi phí làm hàng, chuyên chở, tài chính, hao hụt… ít nhất phải cộng thêm 70 đô la nữa mới đủ sở hụi,” chủ doanh nghiệp xuất khẩu đưa ra bài tính giá FOB hay giao hàng qua lan can tàu. Như vậy, giá cà phê robusta loại 2,5% đen bể nay phải chừng 1.740 đô la/tấn FOB hay giá chào xuất khẩu loại cà phê này phải cộng thêm trên giá niêm yết sàn London 80 đô la/tấn nữa mới đảm bảo hòa vốn, chưa nói đến lợi nhuận.
“Giá bán như thế là cao và chỉ dành cho những người đã có hợp đồng bán xuất khẩu giá cao trước đây nay cần hàng phải mua. Dù với mức thấp như hiện nay, vẫn chưa ai dám bỏ tiền mua trữ thêm,” chủ một đại lý cà phê tại TP Pleiku nói.
Tuy thị trường khá yên ắng vì giá bán bằng tiền mặt thấp, vẫn có một vài giao dịch đã chấp nhận giá hiện nay để thanh lý dần hàng tồn kho trước khi vào vụ mới chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng nữa.
Giá thấp vì tồn kho lớn?
Nhiều nguồn ước báo cho rằng có thể tồn kho cà phê chưa bán được tại Việt Nam còn lớn. Thực ra họ dựa trên số liệu xuất khẩu để đoán điều đó. Tổng cục Thống kê cho rằng trong 10 tháng đầu niên vụ cà phê hiện nay, xuất khẩu cà phê giảm gần 23%, chỉ đạt 1,09 triệu tấn. Nếu như cho sản lượng Việt Nam năm nay là 1,5 triệu tấn, cũng phải còn đến 30% lượng hàng tồn kho chưa bán được, đó là chưa nói đến một lượng hàng gối vụ hàng năm thường chừng 150.000 tấn.
“Con số tồn kho nửa triệu tấn cà phê chưa bán của nước xuất khẩu robusta số 1 thế giới Việt Nam quả là lớn đối với hai tháng còn lại của niên vụ và so với số liệu xuất khẩu bình quân 110.000 tấn/tháng vừa qua của Việt Nam,” vị chuyên gia cho biết.
Một số nhận định trên thị trường cho rằng sở dĩ giá sàn kỳ hạn và thị trường nội địa chưa lên được vì người mua đang chờ sức ép bán ra, có giá rẻ hơn, bấy giờ họ mới tranh thủ mua.
Ở đâu có giá cà phê rẻ hơn?
Thật ra, thị trường không phải chờ giá rẻ vì Brazil rất sẵn sàng bán mạnh với giá cạnh tranh hơn nhiều so với hàng từ Việt Nam.
Xem chi tiết tại link
Nguyễn Quang Bình
tbktsg